Sử Dụng Có Chừng Mực Chẩn Đoán Hình Ảnh Cho Những Bệnh Nhân Viêm Tụy Cấp
DEREK K. RICHARDSON, MD, MPH AND BARRY SCHLANSKY, MD, MPH
Viêm tụy cấp thường gặp ở khoa cấp cứu (ED) và dẫn đến nhập viện khoảng 65% ở Mỹ. Nhiều hệ thống thang điểm đã được phát triển để đánh giá tiên lượng và mức nghiêm trọng của viêm tụy cấp, thường kết hợp với CT và MR ổ bụng. Tuy nhiên, hình ảnh này có lợi ích nhất ở những bệnh nhân nội trú hơn là trong đánh giá cấp cứu, trừ khi chẩn đoán đang được thảo luận. Do đó, nên thận trọng khi yêu cầu chẩn đoán hình ảnh bụng cho những bệnh nhân chẩn đoán viêm tụy cấp lúc ban đầu biểu hiện.
BIỂU HIỆN CỦA VIÊM TỤY CẤP
Viêm tụy cấp thường gặp ở khoa cấp cứu, nhưng biểu hiện có thể khác nhau. Bệnh nhân có thể trải qua những cơn đau tái hồi và phàn nàn với nhân viên cấp cứu về tình trạng đau không kiểm soát được và nôn khi đang ăn ở phòng chờ. Những bệnh nhân khác có thể trải qua các triệu chứng không đau mà có thể khó phân biệt với chứng khó tiêu.Viêm tụy cấp nghiêm trọng có thể bắt chước triệu chứng nhiễm khuẩn huyết do viêm nặng, và bệnh nhân có thể biểu hiện sốt và sốc do thoát dịch vào khoảng kẽ. Các nguyên nhân phổ biến nhất của viêm tụy cấp, bao gồm sỏi mật và do rượu nên chú ý nếu bệnh nhân có tiền sử dùng
GIÁ TRỊ CỦA CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH
Mức lipase huyết thanh có độ nhạy và độ đặc hiệu tuyệt vời cho viêm tụy cấp ở pha cấp của bệnh, gần 95% trong hai ngày đầu có các triệu chứng. Tuy nhiên, điều này trở nên không đáng tin hơn ở những bệnh nhân viêm tụy mạn hoặc viêm tụy không liên tục. Ở những bệnh nhân với các triệu chứng và xét nghiệm chẩn đoán điển hình, CT hay MR không cần làm để xác nhận chẩn đoán viêm tụy cấp. Hình ảnh đường mật, thường làm bởi siêu âm, và tiền sử dùng rượu là những bước then chốt đầu tiên để xác định nguyên nhân gây ra. Khi chẩn đoán không rõ ràng do các kết quả xét nghiệm không rõ ràng và triệu chứng không điển hình, CT ổ bụng và khung chậu có thể được chỉ định để đánh giá các nguyên nhân không phải viêm tụy cấp gây đau bụng hoặc để xác nhận viêm tụy cấp.
GIÁ TRỊ CỦA CHẨN ĐOÁN HÌNH ẢNH TRONG CAN THIỆP VÀ TIÊN LƯỢNG
CT hoặc MR trong viêm tụy cấp chủ yếu được dùng để phát hiện các biến chứng chẳng hạn hoại tử tụy hoặc nang giả tụycó thể cảnh báo cần phải can thiệp dẫn lưu. Tuy nhiên, can thiệp thường chậm trễ vài ngày sau khởi phát triệu chứng. Hơn nữa, điều trị ban đầu trong viêm tụy là điều trị hỗ trợ. Khi phát hiện các biến chứng trên hình ảnh, các can thiệp thường bị chậm trễ cho đến 1 tuần hoặc lâu hơn sau khi chẩn đoán và đã xuất hiện dịch hoặc hoại tử tụy kết hợp nhiễm khuẩn. Thời gian tối ưu để chụp là không rõ ràng, nó thường được khuyến cáo cho những bệnh nhân với các triệu chứng dai dẳng hoặc sốt sau 48 đến 72h được điều trị. Thời gian ở khoa cấp cứu hiếm khi tiếp cận ngưỡng này, do đó CT hay MR thường không được chỉ định ở khoa cấp cứu cho bệnh nhân chẩn đoán viêm tụy cấp.
MỐI HIỂM NGUY CỦA HÌNH ẢNH
Một nghiên cứu hồi cứu gần đây tại một bệnh viện hàn lâm cho thấy trên một nửa các bệnh nhân đến khoa cấp cứu với chẩn đoán viêm tụy cấp được chụp CT trong 24h đầu nhập viện; đa số những bệnh nhân này được chẩn đoán rõ là viêm tụy cấp mà không có hình ảnh CT. Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra việc tăng tỷ lệ viêm tụy cấp chẩn đoán sớm hoặc dựa trên hình ảnh ở khoa cấp cứu. Dự báo nguy cơ bức xạ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng mô hình dự đoán lượng cần thiết gây hại đại khái khoảng 1000 trường hợp CT bụng/khung chậu ở những bệnh nhân 40 tuổi với mỗi loại ung thư do bức xạ.
Việc phát hiện các tổn thương không đáng kể trên lâm sàng tại đâu đó trong ổ bụng đòi hỏi các xét nghiệm xâm lấn hoặc lặp lại việc chụp mang thêm nguy cơ cho bệnh nhân và lấy đi quá mức nguồn lực và chi phí từ hệ thống chăm sóc sức khỏe. Mặc dù chụp CT hay MR sớm thỉnh thoảng cần thiết ở những bệnh nhân bệnh rất nặng hoặc trong những trường hợp chẩn đoán không chắc chắn, thông thường chẩn đoán hình ảnh hiếm khi có giá trị và thậm chí có thể gây hại. Hãy thận trọng khi tiếp xúc với bức xạ do lạm dụng chụp CT
ĐIỂM QUAN TRỌNG
- CT/MR không được chỉ định để đánh giá viêm tụy cấp rõ ràng ở khoa cấp cứu.
- Chẩn đoán hình ảnh quá lạm dụng mang lại nguy cơ thực sự cho bệnh nhân.
- Cân nhắc những phương pháp chẩn đoán hình ảnh nếu chẩn đoán không rõ ràng.