1. Home
  2. Cấp cứu
  3. Phần mềm mô phỏng bệnh nhân ảo
  4. Case 1: Thuyên tắc phổi

Phần mềm mô phỏng bệnh nhân ảo

Case 1: Thuyên tắc phổi

❮ sau
tiếp ❯

Bệnh nhân này bị thuyên tắc phổi cấp tính và cần ổn định huyết động và hô hấp, sau đó là tiêu sợi huyết.
Trong giai đoạn chẩn đoán và điều trị ban đầu, ổn định bằng tiêm tĩnh mạch dịch bolus để điều trị hạ huyết áp và bổ sung oxy để điều trị tình trạng thiếu oxy đều là những hành động quan trọng. Chẩn đoán thuyên tắc phổi (PE) nên được xem xét cùng với các nguyên nhân tiềm ẩn khác bao gồm nhồi máu cơ tim (MI), tràn khí màng phổi, viêm phổi, suy tim sung huyết và đợt cấp COPD. Các chỉ định ban đầu nên bao gồm điện tâm đồ tại giường, sau đó ngay lập tức là chụp X quang ngực, D-dimer và troponin để đánh giá tình trạng nhồi máu cơ tim không điển hình. Các xét nghiệm quan trọng khác bao gồm CBC, chem-7, bảng đông máu (trong trường hợp cần chống đông) và pro-BNP. Điện tâm đồ cho thấy nhịp tim nhanh với kiểu S1Q3T3 phù hợp với tình trạng căng cơ tim phải.
D-dimer tăng cao sẽ thúc đẩy bắt đầu dùng heparin để điều trị PE (tiêm tĩnh mạch 80 đơn vị/kg, truyền nhỏ giọt 18 đơn vị/kg/giờ), lý tưởng nhất là trước khi chụp CT xác nhận vì bệnh nhân không ổn định. Heparin trọng lượng phân tử thấp (lovenox) (1mg/kg SC BID) có thể được sử dụng ở những bệnh nhân ổn định nhưng không phải là phương pháp điều trị được lựa chọn ở đây. Nếu cung cấp 02 bổ sung, bệnh nhân sẽ cải thiện đôi chút nhưng độ bão hòa 02 vẫn ở mức gần 90%.

Troponin và pro-BNP tăng cao phù hợp với tình trạng căng cơ tim cấp tính. Nếu thực hiện được, siêu âm tim tại giường sẽ cho thấy tình trạng căng cơ thất phải phù hợp với thuyên tắc phối. Vì tình trạng căng cơ tim phải cũng có thể thấy ở bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nặng và tăng huyết áp phổi, nên việc chụp CT mạch máu ngực để xác nhận là điều cần thiết để chẩn đoán.
Hạ huyết áp của bệnh nhân vẫn tiếp diễn sau khi truyền dịch tĩnh mạch ban đầu, phù hợp với tình trạng sốc tắc nghẽn do PE và cần được điều trị bằng cách bắt đầu truyền norepinephrin. Hành động quyết định quan trọng là bắt đầu tiêu sợi huyết khi đáp ứng các tiêu chuẩn PE lớn (PE đã biết có hạ huyết áp và căng cơ RV có khả năng gây ngừng PEA). TPA (100mg IV trong 2 giờ, hoặc tiêm bolus nếu dùng trong khi ngừng PEA) nên được chỉ định sau khi sàng lọc bệnh nhân để phát hiện bất kỳ nguy cơ biến chứng chảy máu gây tử vong nào do ly giải và bệnh nhân nên được đưa vào ICU sau khi tham khảo ý kiến bác sĩ tim mạch. Ở một số trung tâm, các lựa chọn tiêu huyết khối qua catheter có thể là phương pháp điều trị thay thế cho tiêu huyết khối toàn thân.
Đọc thêm:
Kearon, Clive, et al. “Liệu pháp chống huyết khối cho bệnh VTE: hướng dẫn CHEST và báo cáo của nhóm chuyên gia.” Tạp chí CHEST 149.2 (2016): 315-352.

❮ sau
tiếp ❯

Avatar