1. Home
  2. Sách
  3. Câu hỏi tim mạch
  4. Nhĩ thất phân ly ít xảy ra khi nhịp nhanh thất

Câu hỏi tim mạch

Nhĩ thất phân ly ít xảy ra khi nhịp nhanh thất

❮ sau
tiếp ❯

AV phân ly là dấu hiệu để chẩn đoán VT. ECG phân ly AV có thể gồm: sóng p không liên quan QRS, nhịp kết hợp, nhịp bắt được (capture beat). Thật không may điều này chỉ xảy ra ở khoảng 40% bệnh nhân VT. (Fusion beat ở VT cũng được gọi là Dressler’s beat) Trong sinh lý bình thường, mặc dù tâm nhĩ là thụ động, bất lực về hoạt động cơ học, nhưng nó có chức năng giám sát tâm thất và chi phối điện. Trong thực tế, tâm nhĩ và nút nhĩ thất, ra lệnh cho tâm thất phải hoạt động ở mức nào. Vì vậy, ở người bình thường có nhịp xoang, có sự kết hợp hài hòa mối liên kết AV

Phân ly AV là gì?

Để xảy ra AV phân ly tức mất mối quan hệ sinh lý và liên kết điện giữa nhĩ và thất. xung nhĩ phải được chặn tại ngã ba AV.

block này có thể ở chức năng hoặc do thực thể, một phần hay toàn bộ, liên tục hoặc gián đoạn. Điều này xảy ra chủ yếu ở trong bệnh lý bộ nối AV như CHB …, mà kết quả gây phân ly AV hoàn toàn. Nguyên nhân quan trọng tiếp theo gây AV phân ly, là do sự can thiệp từ máy tạo nhịp tim

tâm nhĩ làm gì khi tâm thất bắt đầu dẫn truyền nhanh chóng và độc lập như trong nhịp nhanh thất?

Khi tâm thất, bắt đầu dẫn truyền độc lập với tốc độ> 200 mỗi xung và cố gắng dẫn truyền ngược qua đoạn giao nhau ở AV. Đồng thời, sự thúc đẩy nhịp xoang khoảng 70 / nhịp cạnh tranh với nhịp từ thất. Đáng buồn thay, tâm thất chủ yếu thành công trong cuộc đua này và hầu hết các xung từ thất ngược lên ngã 3 AV và cấu kết với xung từ nhĩ đến. Khi điều này xảy ra, sẽ xảy ra phân ly AV. Điểm quan trọng ở đây là, nếu AV dẫn truyền ngược nhiều lần tốc độ nhanh và thời gian tối ưu, nó có thể vượt qua nút AV mà không gặp khó khăn và tới tâm nhĩ , sau đó thậm chí còn làm thao túng nút SA và đặt lại nó.

Nếu VT đang liên tục dẫn truyền ngược nó có thể ngăn chặn nút SA phát xung. Điều này làm cho mất hoàn toàn sóng P (Lưu ý thận trọng: Nếu bạn nói VT là một trong những nguyên nhân làm mất sóng P bạn có thể trượt trong hội đồng chuyên môn tim mạch, nhưng điều này vẫn đúng trong thực tế)

Vì vậy, quá trình khử cực và co nhĩ Trong VT là một vấn đề phức tạp. Nó phụ thuộc chủ yếu vào cường độ dẫn truyền xung từ tâm thất. cường độ dẫn truyền từ tâm thất ngược lên quyết định vị trí sóng p:

Sóng P có thể hoàn toàn mất P có thể chạy trước

Trên QRS Trong T

Trong thực tế sóng P nghĩa đen có thể xuất hiện ở bất kỳ nơi nào trên dải của VT

Khi nào nhịp kết hợp (fusion) xảy ra? Khi nào nhịp bắt được (Capture) xảy ra? Điều này một lần nữa được xác định bởi giai đoạn trơ vùng nối AV. Nếu nó cho phép, một xung nhĩ thỉnh thoảng có thể lẻn qua ngã ba AV và tóm được tâm thất. đây gọi là nhịp bắt giữ ―capture beat‖. Capture beat thường QRS hẹp. Vì vậy, trong một nhịp nhanh QRS rộng nếu chúng ta lưu ý có một QRS hẹp hoặc tương đối hẹp có thể đây chính là VT. Nếu xung nhĩ sau khi vượt qua ngã ba AV va chạm với các xung từ thất sẽ cho ra fusion beat (nhịp kết hợp). capture beat không trọn vẹn chính là fusion beat. Nó là sự kết hợp của hai QRS một kích hoạt từ bên trên, một từ bên dưới (song kiếm hợp bích).cho nên độ rộng QRS có thể rộng, hẹp hoặc trung gian

Vì vậy, các bằng chứng AV phân ly trong ECG rất hiếm khi thể hiện nếu VT thành công đi qua ngã ba AV và chiếm cứ nút xoang.

❮ sau
tiếp ❯

Avatar