Đau ngực có thể là 1 triệu chứng của MI cấp làm bệnh nhân phải vào cấp cứu.tim nằm trong lồng ngực và rộng ra phía sau khoảng 15cm. Vị trí tim bên trong thành ngực tạo thành cấu trúc ba chiều. Về mặt lý thuyết, đau có thể bắt đầu tập trung ở một điểm và lan ra theo bất kỳ hướng nào. Theo cổ điển, khi chúng ta nói đau ngực, chúng ta thường chỉ nói đến thành ngực 2 bên. Về mặt kỹ thuật, ngực có thành sau. Mặt sau của ngực nhiều khi đơn giản chỉ gọi là lưng
Chúng ta biết, đau ngực có thể lan ra nhiều nơi, thường lan ra vai và cánh tay trái.
Chúng ta thường nghĩ rằng cơn đau của MI chỉ đến từ cơ tim, nhưng có nhiều nguồn liên quan như:
Màng ngoài tim liền kề Động mạch vành
Đau thần kinh do các dây thần kinh thiếu máu cục bộ Cuối cùng là đau tham chiếu qua da
Một số người tin rằng khi nhồi máu hoàn toàn cả nơi nuôi các đầu tận thần kinh sẽ không xuất hiện tín hiệu đau và bệnh nhân không đau, trong khi cơ chết sẽ làm đau tối đa. Hệ thống thần kinh soma, phản chiếu đau nội tạng tới da làm bệnh nhân tưởng đau bắt nguồn từ những vị trí này. tim là một cấu trúc phản ánh cơn đau chủ yếu ra thành ngực trước, không có gì ngạc nhiên nếu nó chệch hướng cơn đau ra phía sau. Tất nhiên, xương và thành sau ngực dày có khuynh hướng ngăn chặn sự lan ra này
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, bệnh nhân vào CCU hoặc ACS chỉ vì đau lưng sau ngực. Những điều sau đây đã được quan sát.
Đau lưng nghiêm trọng ở bệnh nhân STEMI lớn thường chỉ ra tình trạng rách cơ tim. Tắc động mạch mạc treo và tạng
Bóc tách động mạch chủ đau lưng chỉ do STEMI
Tất cả các nhà tim mạch sẽ thấy ít nhất vài trường hợp STEMI chỉ có đau lưng. Vấn đề đau lưng sẽ có thể vào 1 số khoa khác nhau.
Đau lưng nghiêm trọng trong STEMI là dấu hiệu đáng lo ngại vì nó thường là điểm đánh dấu nguy cơ vỡ sắp xảy ra. Ở đây bệnh nhân đang trong tình trạng căng thẳng trầm trọng, và có thể trở nên kích động và bồn chồn (thiếu oxy)
Có phải MI thành sau hay gây đau lưng (sau ngực)?
Chưa được chứng minh nhưng rõ ràng là có thể. (MI thành sau). Chúng tôi nhấn mạnh kết quả chuyển đạo V7 đến V10 ở MI thành sau
Vì vậy, với bệnh nhân đau ngực đặc biệt phần sau ngực cần làm ECG kiểm tra. Đây là lời khuyên cực kỳ quan trọng mà các bs vừa ra nghề cần nhớ
Trên thực tế, hai dấu hiệu này là tiêu chuẩn chẩn đoán suy tim theo tiêu chuẩn suy tim của Framingham. Khi các tiêu chuẩn này được xây dựng, khái niệm suy tim tâm trương không phải như hiện này. Vì vậy, chúng ta không biết liệu điều này có áp dụng cho suy tim tâm trương?
Chúng ta biết thì tâm trương thất trái ít có khả năng làm tăng áp lực tĩnh mạch hệ thống gây phù và tăng JVP. Tuy nhiên, những rối loạn chức năng tâm trương có thể làm tăng PCWP, PAP và RVP. Cần nhớ rối loạn chức năng tâm trương có liên quan giãn thất phải. Chúng ta cũng nên nhận ra, áp lực tĩnh mạch tăng lên không phải là cơ chế duy nhất gây phù chân. Rối loạn chức năng tâm trương có thể kích hoạt gen ACE, kích hoạt thận giữ Na. Kích thích hoạt động thần kinh nội tiết là cơ chế gây phù ở 1 số bệnh nhân, tác động nhiều đến áp lực thủy tính. Do đó phù có thể dẫn đến rối loạn tâm trương đơn độc
Vì sao rối loan chức năng tâm trương thất phải là nguyên nhân gây suy tim phải?
Cơ chế chưa rõ, hình thái và phát triển LV và RV có chung 1 nguồn cơ, chức năng tâm trương LV có thể ảnh hưởng tới RV.
Phù chân và tăng JVP là dấu hiệu của suy tim tâm thu đơn độc hoặc kết hợp suy tim tâm trương.
Sự kết hợp của qrs điện áp thấp và qrs điện áp cao là dấu hiệu nổi tiếng của bệnh lý giãn cơ tim. Các bệnh nhân có bệnh lý cơ tim nặng thường có qrs điện áp ở v1-v6, điện áp qrs thấp ở chuyển đạo chi.
Điều này xảy ra do hai lý do.
1. Chúng ta biết, chuyển đạo ngực đơn cực và cho thấy hoạt động điện ngay dưới điện cực. Trong bệnh cơ tim giãn, tim giãn ra (thường hơn 6 cm trong tâm trương, có thể lên đến 9cm) làm cho cơ tim gần ngực hơn. Điều này làm tăng hoạt động điện dưới điện cực.
2. thất trái giãn thì tâm trương và cuối tâm thu, lượng máu tăng lên làm tăng tính dẫn điện và ghi lại phức qrs điện áp cao.
Đây được gọi là hiệu ứng Brody. Hiện tượng tương tự xảy ra trong các điều kiện sinh lý như trong test gắng sức làm điện áp qrs tăng
Chuyển đạo chi là chuyển đạo lưỡng cực, chúng ghi nhận điện áp thấp hơn chuyển đạo ngực. ở bệnh nhân giãn cơ tim, tế bào cơ bị thay bởi mô sợi làm giảm năng lượng điện dẫn truyền ra từ tế bào tim
Lưu ý: Mặc dù vậy, LV giãn vẫn ghi lại điện áp cao ở chuyển đạo ngực như giải thích ở trên
Khi nào chuyển đạo chi có thể ghi được điện áp cao trong bệnh cơ tim?
Cần phải nhận ra những khiếm khuyết dẫn truyền có thể làm tăng điện áp qrs ngoài bệnh lý của cơ tim. Điều này xảy ra do LAFB, LBBB, IVCD không đặc hiệu. Bởi vì, các bất thường dẫn truyền này rất phổ biến ở bệnh cơ tim, ít liên quan tới thể tích LV gây QRS điện áp cao.
Sự tương quan của điện áp thấp với khối lượng cơ trong LV?
Với điện áp rất thấp <5mm (qrs max) ở chuyển đạo chi dự đoán tiên lượng tồi (sẹo LV)
Trái tim con người là một bó cơ nặng khoảng 300-400 gram. Cung cấp máu của khối cơ này rất khác nhau. Một số khu vực được tưới máu dồi dào (ví dụ -IVS.) Một số khu vực có cấp máu cân bằng hoặc cung cấp máu kép (thường là LCX và RCA trong vùng giao nhau của tim). Một số khu vực có nguồn cung cấp máu bấp bênh. Đôi khi chúng được gọi là vùng tam giác Bermuda, dễ bị tổn thương, tạo bởi đỉnh LV, thành tự do LV và mặt trước. Đây thường là vùng đất không người ở, mỗi nhánh mạch lớn đều bỏ qua khu vực này và chối bỏ trách nhiệm của chúng.
Đây là lý do tại sao vỡ thành tự do thất và vỡ ICS là biến chứng cơ học gây tử vong hàng đầu trong STEMI
Tương tự như vậy, ngay cả trong số những người sống sót, khu vực này dễ bị giãn nở phình ra và thay đổi bất lợi. Điều này liên quan nhiều đến sự phân bố áp lực của LV (định luật Laplace).
Có thể đây là câu hỏi quan trọng nhất cho một bác sĩ tim mạch hiện đại.
Hỏi: Tim mạch lâm sàng là một chuyên khoa. . .
A. khỏe mạnh và phát triển
B. vẫn sống nhưng đang yếu
C. hấp hối
D. chết cách đây nhiều năm
Nếu câu trả lời của bạn là A, nó sẽ là một lời nói dối trắng trợn! Nếu câu trả lời là D, bạn là một người bi quan.
Câu trả lời thực sự có thể ở đâu đó giữa C và D, nhiều hơn về phía D “
Tại sao khoa tim mạch lâm sàng rơi vào tình trạng như vậy?
Tại sao nó lại trở thành vấn đề đáng lo ngại của các nhà tim mạch hiện nay? Bạn đổ lỗi cho nó về bất cứ điều gì, nhưng thủ phạm thực sự là do sự tấn công của thương mại và suy nghĩ đầy mơ mộng của nhiều bác sĩ tim mạch. trong cuộc sống này, văn hoá và di sản của quá khứ được duy trì ngoại trừ trong y học.
Bây giờ, tim mạch như là một chuyên khoa đang ở trong trạng thái đau thương. Gần như đồng nghĩa với việc đặt stent qua động mạch vành tắc nghẽn. những bs trẻ coi tim mạch như mục tiêu khi chọn nghề
Nhiều người cho rằng bệnh tim mạch nghĩa là chỉ đo HA, nhìn JVP, nhìn mạch mỏm, S1, S2…chứ không khám, sờ và đếm mạch.
Định nghĩa thế nào về tim mạch lâm sàng trong thời đại hiện tại?
Đó là quá trình áp dụng chất xám chúng ta vào triệu chứng của bệnh nhân, ảnh hưởng tới sức khỏe tổng thể và mối liên quan đặc biệt với hệ thống tim mạch. nói đơn giản hơn là lâm sàng, tính hợp lý và đạo đức
Ví dụ, một bệnh nhân sau nmct có chức năng LV bình thường, bạn nên cho về nhà và theo dõi sau này(nếu và chỉ khi có triệu chứng bất thường). Đây mới là cách điều trị đúng đắn.
Nếu bệnh nhân đó được gửi trực tiếp đến phòng can thiệp mạch, thì bạn đã đi sai đường!
Tương tự, một bệnh nhân bị rung nhĩ với đáp ứng thất nhanh, bạn nên cho dùng digoxin, chẹn beta hoặc chẹn kênh canxi để kiểm soát tần số như biện pháp đầu tiên. Nếu bạn gợi ý bệnh nhân nên đến phòng điện sinh lý EP thì bạn lại sai lầm! Nếu bệnh nhân có ASD với shunt dưới 2: 1 lại khuyên nên đặt vật liệu tốn tiền thì bạn lại sai lầm rồi.
Nếu một bệnh nhân bị hẹp động mạch thận lại xui bệnh nhân đặt stent mù quáng thì tim mạch lâm sàng sắp đến hồi tử vong
Nếu bạn chỉ định một loại sartan thế hệ mới nhất cho bệnh nhân tăng huyết áp thay vì tư vấn về chế độ tập luyện, chế độ ăn uống và thay đổi lối sống, điều đó có nghĩa là tim mạch lâm sàng đáng bị treo cổ công khai
Cuối cùng, sự nhạo báng cuối cùng của các nhà tim mạch lâm sàng, khi một bác sĩ chẩn đoán suy tim bởi BNP và CVP, ngay cả khi phổi của bệnh nhân đang rale ầm ĩ kèm theo tĩnh mạch cổ đập mạnh dữ dội.
Tệ hơn nữa, bệnh nhân này cũng có thể bị bs loại trừ chẩn đoán suy tim nếu BNP ở mức bình thường!
Khi bạn gặp một trong những tình huống trên, quá thường xuyên, thì bạn có thể dự đoán tương lai của tim mạch lâm sàng như thế nào rồi đấy.