Johann Peterson MD
Vitamin D là một loại vitamin tan trong mỡ, hoặc là được sản xuất trong da dưới tia tử ngoại (UV), hoặc hấp thụ từ ruột qua chylomicrons. Chế độ ăn uống có vitamin D ở hai dạng: D2 (ergocalciferol, có nguồn gốc từ thực vật hoặc men) hoặc D3 (cholecalciferol, có nguồn gốc từ động vật hoặc sản xuất trong da người được phơi nắng). D3 là dạng sinh lý và có khả năng dùng hơn, nhưng D2 là dạng hay gặp nhất trong các chất bổ sung vitamin D và thực phẩm bổ sung. Vitamin D được hydroxyl hóa thành 25-hydroxycalciferol (25-OH-D) trong gan, và hydroxyl hóa lại thành calcitriol, hoặc 1, 25- (OH) 2-D trong thận. dạng 25-OH-D được định lượng trong máu để đánh giá khả năng lưu trữ vitamin D, có thời gian bán hủy khoảng 2 tuần. dạng 1,25- (OH) 2-D là dạng có hoạt tính sinh học nhất.Vitamin D được đo bằng các đơn vị quốc tế (IU), trong đó 1 IU được định nghĩa là 0,025 μg D3, là 65 pmol D3. đơn vị của các dạng vitamin D khác, (25-OH-D và 1,25- (OH) 2-D) được định nghĩa là tương đương về phân tử với D3 (tức là, 65 pmol = 1 IU).
Dạng 1,25- (OH) 2-D là dạng hormon hoạt động thông qua một thụ thể nhân (VDR), vitamin D gắn với thụ thể retinoic acid (RXR). Phức hợp RXR-VRD-vitamin D gắn với các yếu tố đáp ứng vitamin D trong DNA nhân và làm thay đổi biểu hiện gen. Trong tế bào ống thận và trong biểu mô ruột, vitamin D làm tăng hấp thu canxi và phosphate. Trong xương, nó kích thích cả tạo xương và hủy xương. Nhớ lại rằng horrmon tuyến cận giáp (PTH) chủ yếu được điều chỉnh bởi nồng độ canxi máu. PTH kích thích sự hoạt động của hủy cốt bào và tiêu xương, kích thích tái hấp thu canxi và mất phosphate trong ống thận, và thúc đẩy quá trình hydroxyl hóa 25-OH-D thành 1,25- (OH) 2-D ở thận. Thiếu vitamin D, sự hấp thu canxi kém đi sẽ kích thích giải phóng PTH, tăng tái hấp thu canxi ở thận và tăng hoạt động hủy cốt bào. Tăng hydroxylation hóa ở thận với 25-OH-D để bù trừ duy trì nồng độ 1,25- (OH) –D bình thường hoặc cao với nồng độ 25-OH-D thấp. Giảm hấp thu qua thận làm giảm nồng độ phosphate. Alkaline phosphatase cao, phản ánh tình trạng tăng vận chuyển đến xương.
Thiếu vitamin D thường được chẩn đoán bằng nồng độ vitamin D trong huyết thanh <20 ng / mL, và mức <15 ng / mL biểu hiện sự thiếu hụt nghiêm trọng. Ở trẻ em đang phát triển xương, thiếu vitamin D mạn dẫn đến còi xương, 1 rối loạn xương đặc trưng bởi cốt hóa kém toàn bộ bộ xương, dẫn đến chân bị cong do áp lực khi đi bộ, chân vòng kiềng, thóp liền chậm, xương trán nhô ra…chậm mọc răng, giảm khối lượng cơ và huyết áp thấp hay gặp, hạ canxi có thể nặng gây chuột rút, co cơ, co thắt thanh quản và bệnh giãn cơ tim phì đại.
Thiếu máu hồng cầu nhược sắc có thể là một đặc điểm của còi xương. Ở những bệnh nhân lớn tuổi, sự thiếu hụt vitamin D có thể dẫn đến nhuyễn xương (osteomalacia) mà không có các biểu hiện khác của còi xương
Vitamin D có thể sinh ra đầy đủ trong da nếu có đủ ánh nắng mặt trời để tiếp xúc, tuy nhiên rất khó xác định được nhu cầu và thời gian “sưởi năng” với từng cá nhân cụ thể. Nồng độ Vitamin D ở người khoẻ mạnh thay đổi theo mùa và hoàn cảnh có tiếp xúc với ánh sáng mặt trời nhiều hay không. Sắc tố da và bôi kem chống nắng ảnh hưởng tới lượng bức xạ UV-B giúp tổng hợp vitamin D, và người Mỹ gốc Phi thường dễ bị thiếu vitamin D hơn. Ở Hoa Kỳ, khẩu phần ăn uống bổ sung vitamin D ở trẻ em là 200 IU / ngày, mặc dù đây là vấn đề gây tranh cãi. Ở Canada, khuyến cáo là 400 IU / ngày, giống như ở Mỹ trước đây. Sữa mẹ và bò không đảm bảo cung cấp khoảng 20 đến 25 IU / L vitamin D, mặc dù nồng độ này có thể cao hơn ở bà mẹ có uống vitamin D hay phơi nắng. Tất cả các sữa bột dành cho trẻ sơ sinh được bán ở Hoa Kỳ đều chứa hơn 400 IU / L, do đó, trẻ sơ sinh dùng 500 mL / ngày sẽ đáp ứng được nhu cầu được khuyến cáo. Hội nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) đề nghị bổ sung vitamin D dưới dạng vitamin tổng hợp cho bất kỳ trẻ sơ sinh nào được bú mẹ hoàn toàn hoặc đang dùng <500 mL / ngày, bắt đầu trong 2 tháng đầu đời và cho những trẻ lớn hơn không “tiếp xúc ánh sáng mặt trời thường xuyên”.
Sữa bò và nước cam chứa 100 IU / 8 oz vitamin D. Cá hồi và cá nước mặn khác là nguồn cung cấp vitamin D tốt và nấm shiitake là nguồn cung cấp rất tốt cho người ăn chay.
Trong trường hợp còi xương hoặc thiếu
vitamin D nghiêm trọng, phải dùng liều cao hơn nhiều. Một số phác đồ đã được
khuyến cáo, bao gồm liều uống 150.000 đến 600.000 IU, một liều tiêm bắp 600.000
IU, và liều uống hàng ngày 2.000 IU trong 4 tuần. một nghiên cứu cho thấy tỷ lệ
tăng calci huyết cao hơn sau khi dùng 600.000 IU. Vì vậy nếu không có nghi ngờ
gì về giảm hấp thu, một liều duy nhất 300,000 IU uống có thể hợp lý. Bệnh nhân
bị giảm hấp thu do viêm ruột, xơ nang, ứ mật, hoặc tiêu chảy mạn tính có nguy
cơ thiếu vitamin D và thiếu vitamin hoà tan trong mỡ khác (A, E, và K).